Nhà Thờ Đức Bà là một trong những địa điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng của Sài Gòn. Đây là một kiến trúc được xây dựng từ thời thực dân Pháp mang phong cách Châu Âu. Nhà Thờ Đức Bà ở Sài Gòn là một trong bốn Vương cung Thánh Đường được công nhận Tại Việt Nam. Vì thế nếu bạn đã có ý định đặt chân đến đất Sài Gòn thì không thể bỏ qua việc đến tòa thánh đường được công nhận này.
Vậy Vương Cung Thánh Đường có gì khác so với một nhà thờ bình thường? Hãy cùng chúng mình tìm hiểu về lịch sử và theo chân chúng mình tham quan kiến trúc của Nhà Thờ Đức Bà, một trong những Thánh Đường lớn nhất cả nước.
Lịch sử xây dựng của nhà Thờ Đức Bà
Tháng 8 năm 1876, Thống đốc Nam kỳ Duperré tổ chức cuộc thi thiết kế đồ án kiến trúc cho nhà thờ. Ngoài việc đáp ứng hành lễ cho những tín đồ theo đạo. Thì công trình Nhà Thờ Đức Bà cũng là một công trình nhằm mục đích quảng bá tuyên truyền đạo Thiên Chúa. Giới thiệu rộng rãi nền văn hóa Phương Tây đến với người dân bản địa và người dân Việt Nam.
Ở góc độ quy hoạch đô thị, công trình vừa là điểm nhấn quan trọng trong không gian đô thị. Lại cũng vừa thể hiện sự đa dạng của kiến trúc – văn hóa đô thị. Kiến trúc sư J.Bourad đã dành chiến thắng khi vượt qua 17 đồ án tham gia khác.
Cũng chính kiến trúc sư J.Bourad lại trúng thầu trong việc xây dựng. Ông đã trực tiếp tổ chức thi công và giám sát công trình. Ngày 7 tháng 10 năm 1877, Giám mục Isidore Colombert đặt viên đá đầu tiên trong lễ khởi công nhà Thờ Đức Bà. Buổi lễ diễn ra trước mặt Phó soái Nam Kỳ và nhiều nhân vật quan trọng của chính quyền thời đó. Sau 3 năm xây dựng, vào dịp lễ Phục sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880. Lễ cung hiến và khánh thành công trình được cố đạo Colombert tổ chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers.
Chi phí đắt đỏ cho tuyệt tác kiến trúc của đô thị Sài Gòn
Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang trí nội thất công trình đều do Soái phủ Nam Kỳ đảm trách. Tổng số tiền thời đó là 2.500.000 franc Pháp. Và vì vậy, thời gian đầu công trình có tên là Nhà thờ Nhà nước. Do nhà nước Pháp xây dựng và quản lý.
Cho tới nay, tròn 130 năm, trải qua nhiều biến động chính trị, lịch sử. Nhà thờ Đức Bà vẫn là công trình kiến trúc tuyệt tác của đô thị Sài Gòn. May mắn không bị phá hủy bởi chiến tranh như nhiều công trình khác. Nhưng thời gian dường như cũng không thể làm tàn phai sự lộng lẫy của kiến trúc đặc sắc này. Là một công trình khá đặc biệt về quy hoạch – nằm giữa quảng trường. Liền kề với không gian giao thông quảng trường. Không hề có hàng rào và khuôn viên kế cận. Nhà thờ là một điểm nhấn trong không gian đô thị. Có góc nhìn đẹp từ mọi phía.
Từng Bước, Từng bước thực hiện xây dựng nhà thờ Đức Bà
Công trình làm đỉnh và chiếc đồng hồ khổng lồ trên đỉnh nhà thờ
Trước Nhà thờ là một vườn hoa ngăn cách với sảnh Nhà thờ bằng một lối giao thông trên quảng trường. Ở mặt trước công trình, giữa hai tháp chuông, dưới đỉnh mái có một đồng hồ. Nhìn trên mặt đứng công trình, mặt của chiếc đồng hồ này như một ô cửa sổ. Nhưng bên trong nó là một bộ máy khá đồ sộ, nặng tới hơn 1 tấn. Chiếc đồng hồ này được sản xuất tại Thụy Sỹ năm 1887. Dù cũ kỹ và thô sơ, nó vẫn hoạt động khá chính xác.
Lúc đầu chưa có đỉnh nhọn trên tháp chuông. Vào năm 1894 mới được gắn thêm theo phương án của kiến trúc sư Gardes. Tháp chuông cao 57 m, suốt một thời gian dài nằm ở vị thế cao nhất khu trung tâm thành phố (cao độ 10 m so với mặt biển). Nhờ vậy mà du khách đến Sài Gòn vào thời điểm đó hầu hết theo đường biển đều nhìn thấy nóc chuông nhà thờ này trước tiên. Chỉ riêng hệ thống chuông đã nặng 28.850 kg.
Quá trình để có bức tượng Đức Mẹ Hòa Bình trước nhà thờ
Năm 1903, chính quyền Pháp cho xây dựng bức tượng đồng Pigneau de Béhaine (còn gọi là Giám mục Adran vì vị này làm Giám mục hiệu tòa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp “bảo hộ”, “khai hóa” cho Việt Nam. Tới năm 1945, bức tượng đồng này bị phá bỏ, nhưng phần bệ tượng hình trụ bằng đá hoa cương màu đỏ vẫn còn.
Năm 1959, Linh mục GiPhạm Văn Thiên, cai quản Giáo xứ Sài Gòn bấy giờ. Ông đi dự đại hội Thánh Mẫu ở Vatican. Đã đặt tạc một tượng Đức Mẹ Hòa Bình bằng loại đá cẩm thạch quý hiếm. Tượng được gửi từ Roma – Ý về Sài Gòn – Việt Nam bằng đường thủy. Ngày 16 tháng 2 năm 1959, Linh mục GiPhạm Văn Thiên đã làm lễ dựng tượng trên bệ đài (vẫn còn để trống kể từ năm 1945). Dâng tước hiệu Nữ Vương Hòa Bình. Sau đó 1 ngày (17/2/1959). Hồng y Aganianian từ Roma tới Sài Gòn để chủ tọa lễ bế mạc Đại hội Thánh Mẫu, đã làm phép cho bức tượng. Và từ đó Nhà thờ có tên là Nhà thờ Đức Bà.
Từ nhà thờ Chánh tòa Sài Gòn thành Vương Cung Thánh Đường
Năm 1960, Tòa thánh Vatican thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam với ba tòa Tổng Giám mục tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Thánh đường này được mang tên Nhà thờ Chánh tòa Sài Gòn. Tới năm 1962, Nhà thờ Chánh tòa Sài Gòn được phong Vương Cung Thánh Đường (Basilica). Đây là một danh hiệu tôn vinh đặc biệt của Giáo hoàng dành cho một số nhà thờ hoặc thánh địa theo tính chất cổ kính, tầm quan trọng trong lịch sử và ý nghĩa tâm linh của nhà thờ đối với Giáo hội Công giáo Roma.
Nhà thờ làm theo dạng thánh thất Basilica với mặt bằng hình chữ thập dài. Gồm một gian lớn chính giữa, hai hành lang cánh (cột cao, lấy ánh sáng qua các dàn cửa sổ trên cao). Hậu cung hình bán nguyệt. Kiểu kiến trúc thì làm theo phong cách La Mã có cải tiến ở bên ngoài. Nhưng với cuốn vòm gãy kiểu go-tich bên trong cùng kết cấu thép hiện đại chống đỡ cả công trình.
Kiến trúc của nhà thờ Đức Bà
Giới thiệu về diện tích và nguyên liệu thi công
Thật ra ngôi thánh đường không lớn lắm so với các ngôi thánh đường ở chính quốc. Nhưng lại vào hàng đẹp nhất của thuộc địa Pháp thời bấy giờ. Không gian bên trong rộng gồm chính điện và 2 gian phụ dài 93 m. Cánh ngang rộng 35 m, hậu cung tròn đặt dàn đồng ca, năm nhà nguyện nhỏ với hành lang bao quanh.
Thánh đường có chiều dài 133m, tính từ cửa đến tường phòng đọc kinh phía sau. Chiều rộng thánh đường là 35m. Hình thức công trình đối xứng, có chiều cao giảm dần về phía sau. Với đỉnh cao nhất là tháp chuông ở phía trước, tới khối chính điện. Hậu cung tròn của dàn đồng ca và các nhà nguyện, phòng đọc kinh sau cùng.
Khi thi công, hầu hết những nguyên vật liệu xây dựng, trang trí đều được chuyển từ Pháp sang như gạch xây, ngói, sắt thép, xi măng, kính màu trang trí và các kết cấu, phụ kiện kim khí…
Vị trí địa lý và đặc điểm làm nên cấu trúc của nhà thờ
Nằm trên vùng đất cao ráo và bền chắc. Nhưng do chưa nghiên cứu kỹ lưỡng về nền móng cho nên vào năm 1885 người ta đã phải dỡ ra. Tiến hành chống đỡ lại phần nền vì nền gạch cũ không chịu đựng nổi tải trọng quá lớn của các công trình bên trên. Móng của công trình được thiết kế đặc biệt, có thể chịu tải gấp 10 lần khối kiến trúc nhà thờ nằm bên trên.
Một điểm đặc sắc nữa là bề mặt công trình được xây toàn bộ bằng gạch trần và đá xanh. Không hề tô trát, với sự tính toán tỉ mỉ, chính xác cấu kiện, chuẩn mực tỷ lệ đến kinh ngạc. Những viên gạch và ngói lợp ban đầu được chuyển từ Marseille sang. Tường xây đá xanh Biên Hoà kết hợp với gạch đỏ Marseille để trần và không bị đóng rêu. Cho tới bây giờ, bề mặt công trình bằng gạch trần vẫn giữ nguyên màu gạch hồng tươi, không bị bám rêu mốc.
Về sau do hư hại, một số cấu kiện như ngói lợp được thay thế bằng chủng loại sản xuất trong nước. Ngói Phú Hữu với chất lượng không kém ngói Pháp. Toàn bộ thánh đường có 56 ô cửa kính màu do hãng Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất. Toà nhà được thông gió khá tốt nhờ bố trí các lỗ hơi trên và dưới cửa sổ, không đóng kín như bên Pháp.
Thiết bị nội thất bên trong tòa thánh đường
Nội thất thánh đường bao gồm chính điện (gian chính) ở giữa. Hai gian phụ hai bên, tiếp theo là dãy nhà nguyện. Chính điện có chiều cao 21m, ngăn cách với hai không gian phụ bằng hàng cột cuốn vòm kết hợp với trụ thép đỡ vòm mái. Không gian làm lễ và cầu nguyện này có thể chứa được 1200 người.
Dãy nhà nguyện hai bên là nơi đặt những bàn thờ nhỏ. Có những bệ thờ và tượng thánh bằng đá tinh xảo. Bàn thờ chính nơi Cung Thánh được làm bằng đá cẩm thạch nguyên khối. Có hình 6 vị thiên thần đỡ mặt bàn thờ. Bệ thờ được chia làm 3 khoang, cũng là những tác phẩm điêu khắc có nội dung điển tích đạo Thiên chúa.
Trên tường có 56 ô cửa kính màu có nội dung mô tả các nhân vật, sự kiện trong Kinh Thánh. Nhưng cũng xen kẽ rất nhiều họa tiết và hình tượng phương Đông. Đáng tiếc các ô cửa kính nay còn nguyên vẹn rất ít.
Kiến trúc của thánh đường đã tạo nên một hiệu ứng ánh sáng tuyệt vời trong nội thất. Cho một cảm giác tĩnh lặng, thánh thiện và trang nghiêm. Ánh sáng huyền ảo cũng làm các chi tiết kiến trúc, nội thất bên trong thánh đường nổi bật và đẹp hơn.
Thiết kế phía trên và phía trước nhà thờ
Phía trên cửa chính là gác đàn – nơi chứa cây đàn organ ống. Một trong những cây đàn cổ nhất Việt Nam. Đây là cây đàn được sản xuất thủ công hoàn toàn. Phục vụ cho những nghi lễ của Nhà thờ. Nhưng hiện nay cây đàn đã bị hỏng hoàn toàn do bị mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay.
Bức tượng Đức Mẹ Hòa Bình đặt ở trung tâm vườn hoa phía trước Nhà thờ do nhà điêu khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959 tại Ý. Tượng Đức Mẹ có thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu. Trên trái địa cầu có đính cây thánh giá. Đôi mắt Đức Mẹ đăm chiêu nhìn lên bầu trời như đang nguyện cầu…
Ý nghĩa to lớn của Nhà Thờ Đức Bà
Ngôi nhà thờ này được đánh giá như một công trình văn hoá – tinh thần bước đầu mang nét kiến trúc cộng sinh Đông – Tây. KTS đã thành công khi tổ chức bố cục hợp lý lẫn sử dụng kết cấu hiện đại phương Tây. Nhất là nghiên cứu đáp ứng điều kiện thời tiết khí hậu nhiệt đới bản xứ. Nội thất với kính màu trang trí nhiều hình tượng phương Đông nói lên ý hướng hoà nhập. Bước đầu vào phong cách phương Đông cho một công trình kiến trúc cơ bản thuộc nền văn hoá phương Tây.
Nhà thờ Đức Bà xứng đáng là một tuyệt tác kiến trúc. Là một công trình tiêu biểu góp phần tạo nên diện mạo đô thị Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình cũng ghi nhận sự du nhập, giao lưu và tiếp biến của văn hóa – kiến trúc Đông – Tây. Ở đó kiến trúc sư đã thành công trong một thể loại công trình thuộc nền văn hóa Phương Tây nhưng xây dựng ở phương Đông. Với những kết cấu và vật liệu mới, nhưng lại phù hợp với các điều kiện xã hội và khí hậu của bản xứ.
Không chỉ những du khách ở xa đến, mà chính cả những người dân Sài Gòn. Hàng ngày khi đi qua vẫn trầm trồ thán phục trước vẻ đẹp tráng lệ mà vẫn giản dị, uy nghiêm mà gần gũi. Trải qua bao năm tháng và biến động, công trình vẫn tồn tại giữa lòng Sài Gòn, như một dấu son đô thị.
Nguồn: tapchikientruc.com.vn